Đảm bảo nguồn chi ngân sách 3% cho giáo dục đại học
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học đạt ít nhất 3% tổng chi ngân sách hàng năm.
Hiện đại hóa và chuẩn hóa giáo dục đại học
Ngày 22/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Tờ trình và Thẩm tra về 3 dự án: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Nguyễn Kim Sơn phát biểu
Về các nội dung cơ bản của dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho biết, dự thảo Luật được xây dựng theo hướng luật khung, bảo đảm tính đồng bộ, dự thảo gồm 9 chương, 46 điều, giảm 27 điều so với Luật Giáo dục đại học hiện hành.
Những nét chính bao gồm: Thứ nhất, dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở tổng kết toàn diện việc thi hành Luật Giáo dục đại học năm 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2018; bám sát tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW, cùng với các nghị quyết có liên quan của Trung ương (Nghị quyết số 66-NQ/TW, 59-NQ/TW, 57-NQ/TW và 72-NQ/TW), nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách lớn của Đảng về phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong thời kỳ mới.
"Trọng tâm của dự thảo khẳng định Nhà nước giữ vai trò kiến tạo, bảo đảm nguồn lực và công bằng trong giáo dục đại học, đồng thời xác nhận quyền tự chủ của cơ sở đào tạo không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính, gắn tự chủ với cơ chế tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình" - Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn khẳng định.
Những điểm đột phá của dự thảo Luật tập trung vào việc kiện toàn hệ thống, nâng cao năng lực quản trị, tăng tính chỉ huy đồng bộ, thống nhất trong hệ thống; đầu tư có trọng tâm - trọng điểm, phát triển hệ thống liên thông hiện đại, thu hút đội ngũ nhà khoa học xuất sắc; tăng cường chính sách hỗ trợ trực tiếp người học; loại bỏ kiểm định hình thức.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội chuyên trách, bản cập nhật mới nhất của dự thảo Luật tập trung tháo gỡ các bất cập tồn tại về liên thông giữa các trình độ; đào tạo chuyên sâu đặc thù; điều chỉnh cơ cấu tổ chức phù hợp với yêu cầu mới về hội đồng trường, phân hiệu và địa điểm đào tạo phù hợp với chính quyền 2 cấp; bãi bỏ những nội dung quy định tại Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Nghề nghiệp, Luật Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, dự thảo Luật kế thừa và giữ ổn định hiện hành và khắc phục những bất cập hiện hành. Mở rộng phạm vi và đối tượng quản lý; chỉnh sửa các bất cập của các quy định về tự chủ đại học, tài chính, tài sản, văn bằng, hình thức và phương thức đào tạo.
Nội dung sửa đổi, bổ sung gồm 22/46 điều (chiếm khoảng 48%), tập trung hoàn thiện cơ chế tự chủ đại học gắn với tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình, củng cố mô hình tổ chức và quản trị (hội đồng trường tư thục, hội đồng khoa học và đào tạo), nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt áp dụng các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, cải tiến chương trình, tuyển sinh, kiểm định, tài chính, đội ngũ giảng viên; quản lý theo chuẩn và chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Bãi bỏ hội đồng trường ở cơ sở công lập (ngoại trừ các trường đại học công lập thành lập theo thỏa thuận giữa các Chính phủ), phân định Ban Giám hiệu, Hội đồng trường, Nhà đầu tư trong cơ sở giáo dục tư thục; khẳng định tự chủ là quyền pháp định và không phụ thuộc vào mức độ tài chính, bổ sung cơ chế dừng tuyển sinh, cấp phép và rút phép phép hoạt động đối với ngành đào tạo yếu kém, không đảm bảo chất lượng.
Đồng thời, thiết lập hệ thống chuẩn chương trình, chuẩn cơ sở giáo dục đại học và cơ chế bảo đảm văn hóa chất lượng bên trong và kiểm định thực chất, hướng tới nâng cao chất lượng, minh bạch và uy tín của hệ thống.
Thứ ba, hiện đại hóa và chuẩn hóa giáo dục đại học trong dự thảo Luật được thể hiện qua 9 điều mới (chiếm khoảng 20%) đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đại học trong giai đoạn mới.
Các nội dung mới tập trung đề cao tự do học thuật và liêm chính học thuật, tích hợp và liên thông giữa các trình độ đào tạo; phát triển mô hình giáo dục đại học số, khơi thông nguồn lực xã hội hóa trong giáo dục đại học, đảm bảo nguồn chi ngân sách (3%) cho giáo dục đại học; thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cơ chế chính sách đầu tư và tổ chức đào tạo tinh hoa, đào tạo chất lượng cao, đào tạo đại trà - nâng cao dân trí.
Liên thông đào tạo và thúc đẩy học tập suốt đời; phát triển mô hình giáo dục đại học số; gắn đào tạo sau đại học với khoa học công nghệ; các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước, đồng thời hoàn thiện cơ chế học phí, học bổng và hỗ trợ trực tiếp người học, bảo đảm công bằng, hiệu quả và hội nhập quốc tế trong tiếp cận giáo dục đại học.
Thứ tư, dự thảo Luật tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân quyền, phân cấp và cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học, kế thừa những kết quả đạt được trong giai đoạn vừa qua; tinh gọn bộ máy tổ chức hoạt động nội bộ của cơ sở giáo dục đại học; hình thành các đại học đa ngành, chuyên ngành đủ mạnh, hoạt động hiệu quả, chất lượng, phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Theo đó, Chính phủ được phân quyền quy định các nhóm nhiệm vụ về thành lập, chia tách cơ sở giáo dục đại học, điều kiện đầu tư, hoạt động, tài chính, kiểm định chất lượng, hợp tác và đầu tư quốc tế (6 nhóm nhiệm vụ); Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn như chuẩn cơ sở, chuẩn chương trình, cấp phép và rút phép các ngành, các cơ sở đào tạo (3 nhiệm vụ).
Dự thảo đồng thời phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về giáo dục đại học trên địa bàn, gắn kết đào tạo với nhu cầu nhân lực địa phương; các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên ngành đối với cơ sở trực thuộc, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong quy hoạch, dự báo và phát triển nhân lực, bảo đảm trách nhiệm rõ ràng, thẩm quyền minh bạch, quản lý hiệu quả và thống nhất.
Cách tiếp cận này tạo lập mô hình quản trị đa tầng, rõ thẩm quyền, minh bạch trách nhiệm, chuyển trọng tâm từ “quản lý vi mô” sang quản trị theo năng lực, kết quả và trách nhiệm giải trình, góp phần hiện đại hóa quản lý nhà nước, giảm chồng chéo và nâng cao hiệu quả điều hành toàn hệ thống.
Các cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong hoạt động đào tạo, học thuật, xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo dưới các hình thức, mô hình (truyền thống, giáo dục số, liên thông giữa các trình độ); nghiên cứu khoa học, tài chính, nhân sự, hợp tác quốc tế và kiểm định chất lượng giáo dục.
Thứ năm, dự thảo Luật tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới phương thức quản lý nhà nước trong giáo dục đại học theo hướng chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đơn giản hóa quy trình, giảm can thiệp hành chính, đồng thời nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả quản trị.
So với Luật hiện hành, số thủ tục hành chính giảm từ 9 xuống còn 4 (tương ứng 55%), thông qua hợp nhất, tinh giản và chuẩn hóa các quy định liên quan đến đăng ký hoạt động của trường và phân hiệu, cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, chương trình liên kết đào tạo.
Làm rõ cơ chế kiểm soát chất lượng
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh nêu rõ, Ủy ban tán thành quy định về chính sách Nhà nước phát triển giáo dục đại học (Điều 5). Tuy nhiên, cần làm rõ vai trò chủ đạo của ngân sách nhà nước trong đầu tư cho giáo dục đại học; bao gồm chính sách đối với giáo dục đại học công lập và giáo dục đại học ngoài công lập.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hoá và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh
Ủy ban tán thành quy định về tổ chức và quản trị của cơ sở giáo dục đại học (Chương II)và cho rằng, dự thảo Luật đã thể chế hóa tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW trong việc bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính.
Tuy nhiên, đề nghị giao Chính phủ có văn bản hướng dẫn riêng về tự chủ đại học; quy định rõ về mức độ tự chủ dựa trên năng lực quản trị, chất lượng giáo dục được kiểm định và năng lực tài chính của cơ sở giáo dục đại học.
Quy định rõ về quyền hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong giám sát hoạt động điều hành cơ sở giáo dục đại học khi chấm dứt hoạt động của hội đồng trường trong trường công lập; làm rõ vai trò, vị trí, chức năng một số đơn vị trong cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học như trường thuộc, phân hiệu, cơ sở sản xuất, hội đồng khoa học và đào tạo.
Bên cạnh đó, Ủy ban tán thành quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát, bảo đảm nâng cao chất lượng đào tạo giáo dục đại học (Chương III), đặc biệt là trong các ngành đào tạo giáo viên, lĩnh vực sức khỏe, pháp luật và trong đào tạo trình độ tiến sĩ; nhất trí quan điểm đổi mới từ quản lý mở ngành đào tạo sang quản lý chương trình đào tạo theo chuẩn.
Tuy nhiên, đề nghị làm rõ hơn việc cấp phép, cấp phép bổ sung, vấn đề áp dụng hình thức đình chỉ, thu hồi giấy phép đã cấp.
Có ý kiến đề nghị giao quyền cho cơ quan quản lý nhà nước quy định ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào của tất cả các ngành, nghề, phương thức đào tạo giáo dục đại học; quy định điều kiện đầu vào đối với người tốt nghiệp trung học nghề để kiểm soát chất lượng; làm rõ cơ chế kiểm soát chất lượng, thực hiện hậu kiểm dựa trên kết quả đầu ra.
Ủy ban tán thành các quy định của dự thảo Luật về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong cơ sở giáo dục đại học (Chương IV), nhất trí xác định cơ sở giáo dục đại học là tổ chức khoa học và công nghệ, có trách nhiệm phát triển tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thông qua việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tuy nhiên, đề nghị bổ sung quy định tạo cơ chế thúc đẩy liên kết giữa nhà trường, doanh nghiệp và Nhà nước; làm rõ hơn nội dung, trình tự, thủ tục định giá, xác lập quyền sở hữu, khai thác, phân chia lợi ích từ tài sản trí tuệ, kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ.
Ủy ban cơ bản tán thành việc bổ sung quy định giảng viên đồng cơ hữu. Đề nghị rà soát để bảo đảm thống nhất với quy định của Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và các dự thảo Luật về giáo dục, đào tạo đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung.
Ủy ban cũng tán thành nguyên tắc về tiêu chuẩn, cơ chế, trách nhiệm thực hiện đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục quy định tại dự thảo Luật (Chương VI). Tuy nhiên, đề nghị xem xét yêu cầu xây dựng, vận hành, phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong đối với cơ sở đào tạo có quy mô rất nhỏ; làm rõ hơn mối quan hệ giữa chuẩn chương trình đào tạo và tiêu chuẩn đánh giá, kiểm định chất lượng.
Quy định rõ hơn về tính độc lập giữa hoạt động tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học với hoạt động đánh giá ngoài của tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; cơ chế giám sát, đánh giá năng lực, chất lượng hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục.
Ủy ban tán thành với các quy định về tài chính, tài sản (Chương VII)và cho rằng, dự thảo Luật đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học đạt ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm, được phân bổ dựa trên sứ mạng, chất lượng và hiệu quả theo cơ chế thống nhất trong toàn ngành.
Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa phân định cơ chế tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục; quy định về cơ chế đặt hàng đào tạo chưa rõ. Đề nghị nghiên cứu giao cơ sở giáo dục đại học công lập được quyết định việc quản lý, sử dụng nguồn thu hợp pháp ngoài ngân sách nhà nước cho nhiệm vụ chi đầu tư phát triển.
Ủy ban Văn hoá và Xã hội tán thành việc sửa đổi toàn diện Luật Giáo dục đại học như đề nghị của Chính phủ. Dự thảo Luật đã thể chế hóa cơ bản đầy đủ, kịp thời các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước; quy định những nội dung cơ bản, quan trọng, có tính nguyên tắc, đúng thẩm quyền của Quốc hội nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thống nhất và thuận lợi cho đột phá phát triển giáo dục đại học.