Giảm phát thải trong trồng trọt: Đường dài cần cơ chế vững
Chính sách có hay đến đâu cũng khó thành công nếu người nông dân chưa hiểu, chưa thấy lợi ích trực tiếp từ mô hình giảm phát thải.
Đến năm 2050, mọi cánh đồng Việt đều hướng tới chuẩn canh tác phát thải thấp — đó là tầm nhìn được xác lập trong Đề án phát triển trồng trọt giảm phát thải vừa được Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2035, giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm 2020; và đến năm 2050, 100% diện tích cây trồng chủ lực áp dụng quy trình kỹ thuật phát thải thấp.
Đây là bước đi quan trọng hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Nhưng điều khiến nhiều người quan tâm là: làm sao để mục tiêu không chỉ dừng ở tầm nhìn, mà trở thành hành động cụ thể – từ chính những người ngày ngày cày cấy trồng trọt với ruộng lúa, đồng rau, nương cà phê…
Đường dài nhưng buộc phải đi
Bản Đề án đạt mục tiêu trọng tâm là vừa đảm bảo tăng trưởng về năng suất và giá trị, vừa giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường - Hoàng Trung cho biết.

Tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương. Ảnh: Trung Chánh
Đề án được ban hành đúng thời điểm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ngành trồng trọt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và hội nhập sâu vào thị trường quốc tế.
Một bản kế hoạch hành động thực hiện Đề án này cũng vừa được Bộ công bố với mong đợi nhận được đóng góp, đặc biệt mong đợi các đề xuất có tính khả thi cao, gắn liền thực tiễn sản xuất, Thứ trưởng Hoàng Trung bày tỏ.
Đưa ra kế hoạch hành động là một bước đi cụ thể hóa cam kết của Việt Nam và thể hiện quyết tâm đạt mục tiêu giảm phát thải 30% khí nhà kính vào năm 2030, hướng tới nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và có trách nhiệm với môi trường toàn cầu của ngành nông nghiệp.
Giảm phát thải trong trồng trọt là đường dài nhưng khả thi, nếu có sự phối hợp đồng bộ và là con đường buộc phải đi nếu chúng ta muốn nông nghiệp Việt Nam không bị bỏ lại trong chuỗi cung ứng xanh của thế giới.
Làm sao chứng minh kết quả giảm thải
Bên cạnh các nhiệm vụ chính, bản kế hoạch trên đưa ra đề xuất triển khai 59 mô hình tại 34 tỉnh, thành phố. Mỗi tỉnh dự kiến xây dựng 1-3 mô hình phù hợp với đặc thù địa phương, có tiềm năng giảm phát thải cao và biện pháp giảm phát thải cụ thể cho từng loại hình sản xuất.
Thí điểm tối thiểu 15 mô hình canh tác đủ điều kiện phát triển tín chỉ carbon. Hệ thống dữ liệu phát thải sẽ được đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia.
Trong vài năm qua, nhiều mô hình canh tác phát thải thấp đã được thí điểm. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, phương pháp tưới ngập khô xen kẽ trong trồng lúa giúp giảm 30% nước tưới và 20% khí mê-tan. Ở Tây Nguyên, các trang trại cà phê áp dụng bón phân tiết kiệm, tái sử dụng phụ phẩm làm phân hữu cơ, vừa giảm chi phí vừa cải thiện đất. Tuy nhiên, thực tiễn còn nhiều khó khăn khiến các mô hình này chưa nhân rộng được.
Ai cũng thấy sản xuất theo định hướng phát thải thấp, ứng dụng công nghệ cao là xu hướng tất yếu. Nhưng vẫn còn nhiều ngươì mang không ít băn khoăn.
Doanh nghiệp, người nông dân đầu tư quy trình phát thải thấp, thì kết quả ấy được công nhận thế nào, có được hưởng tín chỉ carbon hay ưu đãi tín dụng xanh không. Nếu chưa có hướng dẫn rõ, doanh nghiệp rất khó tính toán.
“Khái niệm sản xuất giảm phát thải vẫn còn khá mới đối với người dân và doanh nghiệp địa phương. Tỉnh vẫn chưa có cơ sở rõ ràng để xác định các mục tiêu giảm phát thải, cũng như có hồ sơ tham gia thị trường tín chỉ carbon”, Ông Nguyễn Hoàng Phúc - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng cho hay.
Ông Lê Chí Thiện, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đồng Tháp cho biết: Đồng Tháp đã tiên phong triển khai 21 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao giảm phát thải, giúp giảm 20-30% lượng nước tưới, tiết kiệm 15% chi phí và cắt giảm đáng kể lượng khí metan phát thải ra môi trường.
Tận dụng vỏ trấu sản xuất biogas, dùng phụ phẩm làm phân hữu cơ, hướng tới nền nông nghiệp tuần hoàn, hiệu quả. Phát triển mô hình lúa sinh thái và chuyển đổi các diện tích kém hiệu quả sang mô hình sản xuất giảm phát thải. Đó là những việc Đồng Tháp đã làm, nhưng cũng gặp không ít thách thức.
Nguyên do là thiếu nguồn lực đầu tư, thiếu cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, chính sách tín dụng xanh hay hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cho từng nhóm cây trồng.
TS Lê Văn Tri, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón sinh học Việt Nam đặt vấn đề:“Khi đề án triển khai, nếu người nông dân tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật thì ai sẽ đứng ra bao tiêu sản phẩm? Nếu chất lượng nông sản đạt chuẩn theo quy định, thì việc cấp chứng chỉ sẽ thực hiện như thế nào, và giá trị gia tăng từ đó được chứng thực ra sao? Thách thức lớn nhất hiện nay chính là tổ chức thực hiện và đảm bảo cam kết với người nông dân”.
Không thể giảm phát thải bằng khẩu hiệu
Thực tiễn cho thấy, giảm phát thải không thể bằng lời kêu gọi, mà phải bằng cơ chế và hành động. Người nông dân chỉ làm nếu thấy lợi ích, doanh nghiệp chỉ tham gia nếu có cơ chế rõ ràng.

Các thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới đang ngày càng siết chặt các yêu cầu về phát thải carbon, chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Ảnh: An Bình.
Chính sách phải chạm đến lợi ích cụ thể, chứ không dừng ở khẩu hiệu. Giảm phát thải chỉ trở thành hành động tự giác khi người sản xuất có lợi ích cụ thể. Truyền thông và đào tạo cũng đóng vai trò then chốt. Nông dân phải hiểu vì sao cần giảm phát thải, và họ có thể hưởng gì từ đó.
Vì thế, trước hết, phải thiết kế lại cơ chế khuyến khích kinh tế. Bên cạnh đó là nguồn lực thực hiện. Hiện nay mới chủ yếu dựa vào xã hội hóa.
“Dù đây là hướng đi lớn và lâu dài, nhưng nếu không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, quá trình triển khai sẽ khó đạt hiệu quả như kỳ vọng”, PGS.TS Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Đồng thời cần xác định cụ thể cách thức tham gia, loại hàng hóa được mua bán và phương pháp đo lường tín chỉ carbon trong lĩnh vực trồng trọt.
Nếu không chuẩn hóa ngay từ khâu tổ chức ban đầu, sẽ khó hình thành một chuỗi minh bạch, có thể giao dịch quốc tế. Và Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần sớm xây dựng bộ tiêu chí chuyển đổi cây trồng.
Uu tiên hàng đầu trong kế hoạch hành động là xây dựng và ban hành gói kỹ thuật để chuyển giao cho các địa phương. Đây là nền tảng quan trọng giúp các tỉnh, thành có thể nhanh chóng triển khai thực tế trên đồng ruộng. PGS.TS Lê Quốc Doanh, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam nêu ý kiến.
TS Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch HĐQT Quỹ Cộng đồng phòng tránh thiên tai cho rằng, để quá trình chuyển đổi sang trồng trọt giảm phát thải đạt hiệu quả và bền vững, cần bổ sung 2 nhóm giải pháp lớn.
Trước hết phải điều chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của sản xuất xanh, đặc biệt là hệ thống thủy lợi cho cây lúa.
Bên cạnh đó là kế hoạch huy động nguồn lực cho chuyển đổi trên phạm vi toàn quốc. Nếu chỉ trông chờ vào ngân sách thì khó có thể đi đường dài. Và chính sách vẫn là yếu tố then chốt.







