Dệt may Việt Nam: Chinh phục mục tiêu 64,5 tỷ USD và hơn thế nữa
Mục tiêu đến năm 2030, dệt may Việt Nam đạt 64,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng 6,5-7%/năm, để chạm tới mốc này thách thức có thể nhìn thấy là không dễ dàng.
Thách thức lớn
Mới đây, Hiệp hội Dệt may Việt Nam thông tin, mục tiêu đến năm 2030 ngành dệt may dự kiến đạt 64,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng bình quân 6,5-7%/năm. Đây là con số không hề nhỏ.
Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, có thể nhận diện rõ những thách thức lớn, tác động đến ngành trong 5 năm tới và hơn thế nữa.

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam. Ảnh: Hải Linh
“Đầu tiên và quan trọng nhất là sự chuyển đổi trong quan hệ chính trị và phương thức mua hàng toàn cầu. Điều đó buộc doanh nghiệp Việt Nam phải có giải pháp phù hợp để nâng cao năng lực bán hàng, từng bước đưa mô hình doanh nghiệp dệt may trở thành doanh nghiệp đa quốc gia”, ông Giang nhận định.
Hiện nay, một số doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, mở rộng hệ thống sản xuất. Theo Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, đây là thay đổi rất lớn, mở ra không gian phát triển mới cho toàn ngành, trong bối cảnh một số ưu thế của Việt Nam không còn là lợi thế canh tranh mạnh, ví như nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, tự động hóa và robot hóa đang diễn ra cực nhanh. Chỉ trong một năm, nhiều nhà máy đã đưa robot vào vận chuyển giữa các công đoạn. Đây cũng không chỉ là câu chuyện về năng suất, doanh nghiệp nào chậm thích ứng sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thách thức về phát triển bền vững cũng đang “phả hơi nóng” vào từng đơn vị sản xuất. Ngành thời trang thế giới đang bước vào thời kỳ siết chặt yêu cầu về môi trường, minh bạch nguồn gốc, giảm phát thải. Dù nhiều doanh nghiệp Việt đã chủ động đầu tư vào xử lý nước thải, vật liệu tái chế, chuyển đổi sang năng lượng sạch… nhưng để đáp ứng đúng theo yêu cầu của các “ông lớn” nhập khẩu vẫn còn khoảng cách lớn.
“Ngành dệt may cũng chịu rủi ro từ thiên tai, lũ lụt, hiện nhiều nhà máy phải dừng sản xuất, gián đoạn giao hàng, ảnh hưởng đến hàng chục nghìn lao động. Đây là yếu tố bất định mà ngành phải tính đến trong chiến lược dài hạn”, ông Giang nhấn mạnh.
Ông cũng đồng thời cho hay, có ba trụ cột lớn ngành đặt làm trọng tâm phát triển trong 5 năm và xa hơn nữa, gồm: Đa dạng hóa thị trường, đối tác và khách hàng; đẩy mạnh công nghệ, từ tự động hóa đến AI; xây dựng liên kết chuỗi, học hỏi quản trị giữa các doanh nghiệp trong nước.
Song song với đó là ba mục tiêu Go Global (tiến ra thị trường toàn cầu): Hình thành các doanh nghiệp dệt may đa quốc gia; xây dựng công nghiệp thời trang, phát triển thương hiệu Việt ra thế giới; nâng cao nguồn lực đáp ứng mô hình mua hàng và công nghệ mới.
Dù vậy, bài toán lớn nhất vẫn nằm ở nội lực khi đa phần doanh nghiệp dệt may có quy mô vừa và nhỏ, thiếu vốn, thiếu nhân lực chất lượng cao. Ông Giang thẳng thắn khi cho rằng, doanh nghiệp phải chủ động hoạch định con đường phát triển cho mình trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Tận dụng hơn nữa ưu đãi từ các FTA
Một trong những yếu tố then chốt giúp ngành dệt may đặt mục tiêu tăng trưởng 6-7% trong 5 năm tới, mặc dù khả năng tăng trưởng theo chiều rộng có thể đã “đến hạn” là hệ thống các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã đi vào thực thi và những hiệp định đang đàm phán.
Các hiệp định giúp dệt may Việt Nam mở rộng thị trường mới bên cạnh những nước nhập khẩu truyền thống, ông Giang nhìn nhận, điều đó là cần thiết. Trong đó, thị trường Trung Đông với GDP khoảng 5.500 tỷ USD, dân số 370 triệu dân chỉ mới mang lại 400 - 500 triệu USD/năm cho dệt may Việt Nam, như vậy dư địa cho ngành còn rất lớn.

Dệt may Việt Nam dự kiến đến năm 2030 duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu 6,5-7%/năm. Ảnh: Cấn Dũng
Tuy nhiên, việc tận dụng thuận lợi các hiệp định thương mại tự do, với dệt may cũng là câu chuyện đáng bàn khi tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi chưa cao, đơn cử Hiệp định Đối tác Toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP khoảng 15%.
Nguyên nhân của sự hạn chế này không mới: Thiếu thông tin thị trường, thiếu nguồn lực, thiếu bộ phận chuyên trách về FTA trong doanh nghiệp. Với dệt may, thiếu nguồn cung nguyên phụ liệu là vấn đề nổi cộm bấy lâu chưa có lời giải hữu hiệu.
Với hạn chế trên, Chương trình vươn ra thị trường quốc tế 2026 - 2035 (Go Global) do Bộ Công Thương xây dựng và trình Chính phủ mở ra hướng giải quyết triệt để. Ông Trần Huy Hoàn (Vụ Kế hoạch tài chính và Quản lý doanh nghiệp, Bộ Công Thương) cho biết, chương trình có 3 nội dung trọng tâm: Thứ nhất, không chỉ thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, chương trình còn chú trọng xuất khẩu dịch vụ. Đặc biệt, mục tiêu không phải xuất khẩu theo số lượng mà là nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm làm ra trong nước.
Thứ hai, một nội dung lâu nay chưa được chú trọng đúng mức là đầu tư ra nước ngoài. Thực tế, nhiều quốc gia khi ký FTA với Việt Nam đã tận dụng nước ta như một “cửa ngõ” để đầu tư sản xuất và xuất khẩu vào các thị trường khác. Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa khai thác tốt hướng đi này. Hiện nay, cơ hội đầu tư ra nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện rõ nét hơn và đó chính là định hướng quan trọng của chương trình.
Thứ ba, chương trình hướng tới gia tăng sự hiện diện của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mục tiêu không chỉ là xuất khẩu hay đầu tư, mà còn là xây dựng hình ảnh và thương hiệu quốc gia, nghĩa là phát huy sức mạnh của cộng đồng người Việt và giá trị Việt Nam trên phạm vi toàn cầu.
Từ ba nội dung trọng tâm trên, soi vào ngành dệt may Việt Nam có thể thấy, chương trình được Chính phủ phê duyệt, ngành dệt may sẽ có thêm hệ thống chính sách hỗ trợ khắc phục điểm yếu hiện tại, nâng cao nội lực, như: Nguồn cung thiếu hụt, đào tạo nhân lực, kết nối mạng lưới thị trường.
Tuy nhiên như chia sẻ của nhiều chuyên gia, để tiến chắc ra thị trường toàn cầu, đạt mục tiêu dài hạn, tâm thế của cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quyết định, “dám nghĩ, dám làm” là điều cần có.
Ngành dệt may đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 64,5 tỷ USD vào năm 2030, tốc độ tăng trưởng bình quân 6,5 - 7%/năm. Phát triển thị trường nội địa đạt quy mô 8 - 9 tỷ USD. Trọng tâm chiến lược là 'Xanh hóa - Số hóa', tăng tỷ lệ nội địa hóa lên trên 60% và xây dựng thương hiệu thời trang Việt Nam lớn mạnh.







