Vốn tín dụng "tái cấu trúc" theo hệ sinh thái khu công nghiệp
Làn sóng FDI chất lượng cao đang dịch chuyển mạnh vào các khu công nghiệp, kéo theo nhu cầu vốn dài hạn, chi phí hợp lý và giải pháp tài chính toàn diện.
|
| Nhiều doanh nghiệp FDI đã tăng đầu tư vào các KCN. Ảnh minh hoạ: HD |
Trong hơn một thập kỷ qua, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã trở thành động lực tăng trưởng trọng yếu của nền kinh tế Việt Nam. Với đóng góp hơn 20% GDP, 15 đến 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 25,4%–28% thu ngân sách và hơn 70% giá trị xuất khẩu, FDI không chỉ thúc đẩy sản xuất công nghiệp mà còn tạo hơn 5,1 triệu việc làm, đóng vai trò dẫn dắt nhiều chuỗi giá trị toàn cầu đặt chân vào Việt Nam.
Riêng giai đoạn 2021–2025, vốn FDI thực hiện vượt 158 tỷ USD, cao hơn mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Qua 10 tháng năm 2025, dòng vốn đăng ký đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ và mức giải ngân 21,3 tỷ USD là cao nhất 5 năm.
Theo thông tin từ Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các KCN” được tổ chức mới đây, các KCN đang trở thành tâm điểm thu hút FDI nhờ cơ chế quản lý mới, chất lượng hạ tầng cải thiện và môi trường đầu tư minh bạch hơn. Hằng năm, khu vực này chiếm khoảng 40% vốn FDI đăng ký tăng thêm và xu hướng này tiếp tục gia tăng trong năm 2025.
Bối cảnh này mở ra chu kỳ phát triển mới cho hệ thống khu công nghiệp, đòi hỏi chuẩn hạ tầng cao hơn, vận hành theo thông lệ quốc tế và khả năng tích hợp các dịch vụ hỗ trợ sản xuất. Không ít địa phương bắt đầu chuyển từ mô hình “cho thuê đất công nghiệp” sang phát triển “hệ sinh thái KCN” , nơi doanh nghiệp được cung cấp đồng bộ cơ sở hạ tầng, logistics, dịch vụ công cộng, đào tạo nhân lực, kết nối thị trường và hỗ trợ tài chính.
Chẳng hạn, tại KCN hỗ trợ Nam Hà Nội (Hanssip), tiêu chuẩn được thiết kế theo KCN Nhật Bản, do Nikken Sekkei quy hoạch, với quy mô 640ha và hiện đạt tỷ lệ lấp đầy 100%. Đây là một KCN đặc thù phục vụ sản xuất linh kiện chính xác, hàng không vũ trụ, thiết bị bán dẫn, robot, điện tử và sản phẩm lưỡng dụng.
KCN này không chỉ có nhà xưởng tiêu chuẩn cho thuê linh hoạt mà còn sở hữu hệ thống tiện ích hoàn chỉnh: khu y tế, giáo dục, trung tâm nghề nghiệp công nghiệp hỗ trợ, khu thể thao, thương mại, khách sạn, logistics, ngân hàng, hải quan, cùng hệ thống nước sạch và xử lý thải đạt chuẩn quốc tế.
Theo các chuyên gia, khi các dự án FDI được thúc đẩy giải ngân nhanh hơn, nhu cầu tín dụng trong nước cũng sẽ tăng song hành, tạo hiệu ứng lan tỏa lên khu công nghiệp. Mặc dù vậy, bài toán vốn vẫn là một điểm nghẽn khiến nhiều KCN chậm triển khai các hạng mục hạ tầng thiết yếu.
Theo các doanh nghiệp, đầu tư hạ tầng KCN hiện nay không chỉ bao gồm san nền, nhà xưởng hay xử lý nước thải, mà còn tích hợp logistics nội khu, hạ tầng số, năng lượng xanh, dịch vụ tiện ích và các công trình phúc lợi. Quy mô vốn vì vậy tăng nhanh, đòi hỏi sự tham gia mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng thương mại với những gói tín dụng dài hạn, cấu trúc phù hợp và tốc độ giải ngân nhanh hơn.
Bà Trần Nhị Hà - Phó Giám đốc Ngân hàng Doanh nghiệp LPBank cho biết, dòng vốn FDI tiếp tục là một trụ cột tăng trưởng, còn hệ thống khu công nghiệp đang bước vào chu kỳ mở rộng mới với tiêu chuẩn quốc tế cao hơn, nhu cầu hạ tầng đồng bộ hơn và áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Điều này không chỉ tạo ra cơ hội, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về một mô hình ngân hàng doanh nghiệp đủ sâu, đủ rộng và đủ tốc độ để đồng hành cùng hệ sinh thái khu công nghiệp.
Theo bà Hà, mặc dù khối FDI đóng góp tới khoảng ba phần tư giá trị xuất khẩu, dư nợ ngân hàng dành riêng cho nhóm này vẫn còn khiêm tốn và hiện chưa có báo cáo công khai nào thống kê đầy đủ mức sử dụng dịch vụ ngân hàng trong các KCN.
Vì thế, các ngân hàng bắt đầu tái cấu trúc chiến lược phục vụ KCN theo hướng hệ sinh thái. Một số ngân hàng xác định KCN không chỉ là phân khúc khách hàng mà là động lực tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA), mở rộng thị phần dịch vụ và nâng cao chất lượng tài sản.
Đại diện LPBank cho hay, hệ sinh thái khu công nghiệp không chỉ cần dịch vụ mà cần đối tác chiến lược, hỗ trợ tổng thể từ giai đoạn chuẩn bị, triển khai, đến vận hành và mở rộng. Vì thế, LPBank xác định chuyển trọng tâm từ bán sản phẩm sang kiến tạo giải pháp xuyên suốt, bao gồm: Tài trợ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp theo chuẩn quốc tế đối với Chủ đầu tư KCN; gói giải pháp dòng tiền – ngoại hối – bảo lãnh dành riêng cho nhà sản xuất FDI; hệ thống quản trị dòng tiền số hóa, kết nối ERP, tối ưu hóa quản trị kho – vận hành – thu mua xuyên chuỗi.
Bà Hà cũng nhấn mạnh 2 trụ cột chiến lược của LPBank. Thứ nhất là giải pháp tài trợ chuyên sâu, gồm các khoản vay hạ tầng kéo dài tới 10-15 năm và các sản phẩm như UPAS LC hay SBLC cho doanh nghiệp quy mô lớn. Thứ hai là xây dựng nền tảng số hóa dòng tiền nội khu, với cổng thanh toán tập trung và công cụ quản trị ngân quỹ, công nợ, trả lương. Từ đó, giúp mọi doanh nghiệp trong KCN được phục vụ bằng một giải pháp tài chính tối ưu.
Cũng về vấn đề này, ông Hiroki Kamijo - Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc khối FDITB VPBank nêu ba trọng tâm hỗ trợ KCN: tài chính xanh, tài chính xã hội và huy động nguồn vốn bền vững quốc tế.
Theo ông Hiroki Kamijo, hiện có các gói tín dụng ưu đãi cho năng lượng tái tạo, sản xuất tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải bền vững, các sáng kiến kinh tế tuần hoàn và mô hình tòa nhà xanh trong KCN. Những chương trình này giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ chịu hơn trong khi vẫn đáp ứng được các yêu cầu về phát triển bền vững ngày càng khắt khe từ các doanh nghiệp châu Âu, Mỹ và Nhật Bản.
Ngoài ra, trong năm 2025, VPBank đã huy động thành công 1,3 tỷ USD vốn tài chính bền vững từ các tổ chức tài chính phát triển quốc tế, bao gồm 300 triệu USD trái phiếu bền vững phát hành quốc tế, nâng tổng nguồn vốn bền vững huy động từ năm 2022 đến nay lên gần 3 tỷ USD. Điều này có nghĩa là nếu ngân hàng cấp tín dụng cho các KCN sinh thái, thì các KCN có thể tiếp cận được các khoản vay hai bước với chi phí cạnh tranh từ thị trường quốc tế.








