Cấp bách kiểm soát, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
Một trong các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, hoàn thành đến cuối 2026 là thực hiện ngay các biện pháp cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Sẽ vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon
Sáng 28/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành.

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh
Trình bày báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh nhấn mạnh, những kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường thời gian qua là do chủ trương, đường lối đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Cùng với đó, là việc ban hành kịp thời, tương đối đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả theo thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chủ động vào cuộc, phối hợp kịp thời của các Bộ, ngành, địa phương và sự tham gia, nỗ lực của toàn dân, doanh nghiệp, các lực lượng, các nhà khoa học trong công tác bảo vệ môi trường.
Nêu nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, hoàn thành đến cuối năm 2026, ông Lê Quang Mạnh cho hay, sẽ tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI.
Trước mắt, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật này tại Kỳ họp thứ 10 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; đồng thời sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp yêu cầu thực tế. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan như thuế, phí bảo vệ môi trường, ngân sách nhà nước, đầu tư...
Tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh (trong trường hợp cần thiết) các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để đáp ứng yêu cầu “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”, tăng trưởng kinh tế 2 con số trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đồng thời thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Hoàn thành việc đánh giá sức chịu tải và công bố kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt một số lưu vực sông liên tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; cải thiện chất lượng môi trường một số đoạn sông bị ô nhiễm nghiêm trọng trên các sông: Ngũ Huyện Khê, Tô Lịch, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải.
Khẩn trương hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, bảo đảm tích hợp, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia và chia sẻ theo thời gian thực; tích hợp với hệ thống thông tin địa lý (GIS) để xây dựng bản đồ chất lượng môi trường, công bố, công khai cho cộng đồng và triển khai áp dụng cho một số đô thị lớn.
Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến để phục vụ tổng hợp, phân tích và báo cáo kết quả kiểm kê khí nhà kính kịp thời và hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống báo cáo giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu trực tuyến.
Tổ chức thiết lập và vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon, bước đầu hình thành và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam; quy định tỷ lệ kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, lượng tín chỉ các-bon tối thiểu được giữ lại để thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) khi trao đổi, chuyển giao ra quốc tế phù hợp với từng giai đoạn và tình hình thực tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về môi trường ở các cấp; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, người dân trong tuân thủ quy định pháp luật về bảo vệ môi trường.
Phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế
Về nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, ông Lê Quang Mạnh nêu, đầu tiên là phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu.
Theo đó, nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm về môi trường và tác động của biến đổi khí hậu nhằm chủ động phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường.
Thực hiện mục tiêu cam kết trong đóng góp do quốc gia tự quyết định, đến năm 2030 giảm 15,8% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường.
Kiểm soát chặt chẽ yêu cầu về môi trường đối với các dự án đầu tư; nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định, đánh giá công nghệ sản xuất để kiểm soát, ngăn chặn hiệu quả việc nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vào Việt Nam; giám sát chặt chẽ, phòng ngừa đối với cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao; cơ sở năng lượng nguyên tử, cơ sở hạt nhân.
Nâng cao vai trò của hoạt động kiểm toán môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường, tập trung đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề.
Nghiên cứu định hướng, chủ động xây dựng các khu, cụm công nghiệp; di dời các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm, đặc biệt là tại các cụm công nghiệp, làng nghề xen lẫn với khu dân cư tới địa điểm có quy hoạch phù hợp.
Bên cạnh đó, khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường có trọng tâm, trọng điểm. Cụ thể, đẩy mạnh điều tra, đánh giá, phân loại, lập và thực hiện kế hoạch cải tạo, phục hồi khu vực đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Triển khai hiệu quả kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với lưu vực sông liên tỉnh, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; tập trung khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường các đoạn sông bị ô nhiễm (các lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai, sông Vu Gia - Thu Bồn và một số sông tại các đô thị lớn).
Tăng cường thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị, phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ nước thải sinh hoạt tại các đô thị loại I trở lên được thu gom, xử lý đạt khoảng 70%.
Kiểm soát chặt chẽ khí thải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; hạn chế phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn.
Phấn đấu đến năm 2030, tại TP. Hà Nội, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giảm khoảng 20% so với mức trung bình năm 2024, các thông số chất lượng không khí khác được duy trì, bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường; tại các tỉnh, thành phố xung quanh TP. Hà Nội, nồng độ bụi PM2.5 trung bình năm giảm tối thiểu 10% so với mức trung bình năm 2024; tại TP. Hồ Chí Minh và các đô thị khác trên toàn quốc, chất lượng không khí được duy trì kiểm soát, không để gia tăng mức độ ô nhiễm.
Đồng thời, tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại. Theo đó, thực hiện các biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng bền vững, giảm phát sinh chất thải; áp dụng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tiên tiến, thân thiện môi trường, ưu tiên tái chế, xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng thay cho chôn lấp.
Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị (phường, đặc khu) được thu gom, xử lý đạt 95%, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn (xã) được thu gom, xử lý đạt 85%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp so với lượng chất thải được thu gom giảm dưới 50%.
Quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý, chôn cất tập trung chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Quản lý chặt chẽ, tăng cường tái chế, tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp, đặc biệt là chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp phải kiểm soát.
Chủ động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ tái chế, xử lý pin, ắc quy xe điện, pin mặt trời và các loại chất thải phát sinh từ hoạt động chuyển đổi xanh; hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật để đẩy mạnh hoạt động tái sử dụng nước thải, tái chế, xử lý tro, xỉ, thạch cao, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Đẩy mạnh mô hình xử lý theo cụm đối với chất thải y tế nguy hại; hạch toán chi phí xử lý chất thải y tế vào chi phí khám bệnh, chữa bệnh; thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì thải bỏ; xây dựng, nhân rộng mô hình đặt cọc hoàn trả đối với sản phẩm, bao bì thải bỏ.
Phát triển mạnh ngành công nghiệp tái chế, khuyến khích sử dụng, tiêu thụ sản phẩm từ quá trình xử lý chất thải rắn. Thúc đẩy các mô hình hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên minh tái chế, mô hình liên kết vùng, liên kết đô thị với nông thôn và các mô hình khác nhằm phát triển kinh tế tuần hoàn.
Một trong các nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, đó là tăng cường năng lực tổ chức bộ máy quản lý về bảo vệ môi trường. Theo đó, nâng cao hiệu quả phân công giữa trung ương và địa phương trong công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp...







