Kinh tế trưởng VinaCapital lạc quan về lạm phát năm 2026 của Việt Nam
Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital cho rằng, Việt Nam đang sở hữu đội ngũ kỹ sư và chuyên gia khá hùng hậu trong lĩnh vực AI so với quy mô dân số.
Tại Diễn đàn thường niên lần thứ 8 (AF8) với chủ đề: "Hội đồng quản trị bứt phá: Vươn tầm khu vực, định vị niềm tin và danh tiếng trên thị trường vốn" tổ chức ngày 5/12, ông Michael Kokalari - Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital đã chia sẻ bức tranh tổng thể về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm tới và dài hạn, với quan điểm vừa lạc quan, vừa thận trọng.
Xuất khẩu ổn định, tiêu dùng nội địa phục hồi
Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital khẳng định 2025 là năm thành công của kinh tế Việt Nam, nhờ các định hướng đúng đắn của Chính phủ, giúp khai phá tiềm năng tăng trưởng, dự kiến đóng góp thêm khoảng 2 điểm phần trăm vào GDP bình quân trong các năm kế tiếp - nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, theo kế hoạch.

Ông Michael Kokalari - Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital.
Ông Michael Kokalari phân tích, hai động lực chính, tạo bàn đạp cho tăng trưởng GDP năm 2025 là xuất khẩu sang Mỹ (tăng gần 30% so với cùng kỳ) và làn sóng du khách quốc tế, chủ yếu đến từ Trung Quốc (tăng khoảng 20% so với cùng kỳ).
"Nếu không có hai yếu tố này, nền kinh tế vẫn ổn nhưng sẽ thiếu vắng những điểm nhấn", ông đánh giá và dẫn chứng: doanh số bán lẻ thực tế (doanh số đã loại trừ yếu tố lạm phát) đang tăng khoảng 7,5%, dự phóng tăng lên 8% trong năm 2026. Tuy nhiên, nếu loại phần đóng góp từ chi tiêu của khách du lịch, con số này có thể chỉ quanh 5%. Điều này phản ánh đúng cảm nhận của các doanh nghiệp tiêu dùng nội địa, đó là doanh thu duy trì quanh ngưỡng trung bình, ổn định.
Chính vì thế, kỳ vọng lớn của ông Michael Kokalari dành cho năm sau nằm ở sự phục hồi của tiêu dùng nội địa. Sau giai đoạn Covid-19, nhiều hộ gia đình đã phải dùng gần hết tiền tiết kiệm, và những năm vừa qua họ dồn lực tích lũy trở lại. Tỷ lệ tiết kiệm, theo các ước tính mà ông tham khảo, có thể đang cao hơn trước Covid-19 tới 10 điểm phần trăm. Nói cách khác, nếu trước đây hộ gia đình bình thường tiết kiệm khoảng 20% thu nhập, thì giờ có thể là gần 30%.
"Tôi cho rằng, quá trình 'bồi đắp' này sẽ không kéo dài mãi. Đến khoảng giữa năm sau, dù chưa hoàn toàn khôi phục mức tiết kiệm trước đây, nhiều gia đình có thể đã đủ an tâm để quay lại nhịp chi tiêu bình thường hơn. Cộng thêm thị trường chứng khoán đã tăng khoảng 30% so với đầu năm, bất động sản ổn định hơn, hiệu ứng 'giàu lên trên giấy' này sẽ hỗ trợ tâm lý chi tiêu và giúp doanh thu của các doanh nghiệp tiêu dùng niêm yết dần hồi phục", Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital nhận định.
Trong đó, Mỹ - thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vẫn là "đầu tàu" quan trọng. Với diễn biến kinh tế tương đối lạc quan tại Mỹ, xuất khẩu sang quốc gia này nhiều khả năng vẫn vững trong năm tới, dù tốc độ sẽ quay về mức bình thường hơn so với mức tăng gần 30% của năm 2025.

VinaCapital cho rằng, tăng trưởng xuất khẩu và du khách quốc tế là động lực to lớn cho nền kinh tế Việt Nam
Về đầu tư công, đặc biệt là hạ tầng, được ông Michael Kokalari dự báo sẽ tác động tích cực rõ rệt lên tăng trưởng kinh tế trong năm 2026 bởi Chính phủ trước đó đã cam kết lượng vốn bổ sung rất lớn cho hạ tầng, nhưng tốc độ thi công thực tế sẽ có độ trễ nhất định, do quy trình giải phóng mặt bằng, phê duyệt, chuẩn bị vật liệu… Vì vậy, khi dòng vốn cam kết dần chuyển hóa thành công trình, việc làm và thu nhập, "cú hích" trễ này sẽ đem lại kết quả rõ ràng hơn.
Trong số các dự án hạ tầng, có ảnh hưởng lớn nhất theo ông là cao tốc Bắc - Nam, không chỉ quan trọng vì quy mô vốn đầu tư, mà hệ thống cao tốc chạy dọc đất nước sẽ rút ngắn thời gian di chuyển, giúp các doanh nghiệp FDI có thể đặt nhà máy ở nhiều địa phương hơn, tiếp cận lực lượng lao động rộng hơn, từ đó phân bổ sản xuất hợp lý và lan tỏa cơ hội phát triển.
Cần xây dựng ngành AI thực thụ
Tuy nhiên, ở góc độ vĩ mô thận trọng, điểm lo ngại là dự trữ ngoại hối. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước công bố rằng nếu chỉ tính phần nhập khẩu phục vụ tiêu dùng nội địa, dự trữ ngoại hối của Việt Nam thực tế tương đương khoảng 6 tháng, cao hơn nhiều ngưỡng tối thiểu thường được khuyến nghị của các tổ chức quốc tế.
Ông dự đoán xu hướng này có thể chưa dừng lại trong năm tới. Nguyên nhân khách quan đến từ chính sách lãi suất đang được điều hành theo hướng hỗ trợ tăng trưởng mạnh, chấp nhận mức độ nới lỏng tiền tệ trong phạm vi nhất định, với mục tiêu vừa giữ tăng trưởng đủ cao, vừa kiềm chế đà mất giá của tiền đồng. Do đó, kết quả là lãi suất trong nước được giữ ở mức tương đối thấp, nhưng đổi lại, áp lực tỷ giá là điều không thể bỏ qua.
Dù vậy, Kinh tế trưởng Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital không quá lo về lạm phát. Ngay cả khi yếu tố thời tiết, lũ lụt có thể tác động nhẹ, ông vẫn tin rằng lạm phát năm 2026 của Việt Nam sẽ dao dộng trong khoảng dưới 4%.

Ông Michael Kokalari bày tỏ niềm tin mạnh mẽ về câu chuyện trí tuệ nhân tạo (AI) của Việt Nam.
Nhìn về dài hạn, ông đưa ra ba nhóm khuyến nghị. Thứ nhất, Việt Nam đang đi đúng hướng với "Mô hình phát triển Đông Á", vốn là con đường mà Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)… đã đi. Vấn đề không phải là nghĩ ra một mô hình mới, mà là làm quyết liệt hơn, triệt để hơn, đặc biệt trong việc phát triển các cụm công nghiệp, cụm công nghệ cao.
Thứ hai, Việt Nam cần giảm chi phí vốn - hiện vẫn cao hơn nhiều đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Việc được FTSE Russell nâng hạng là bước đi tích cực, nhưng mục tiêu lớn hơn là được MSCI xếp vào nhóm Thị trường Mới nổi.
Cùng với đó, bước ngoặt quan trọng nữa là đạt xếp hạng tín nhiệm mức "Investment grade", nếu đạt được sớm hơn mốc 2030, chi phí vốn của cả nền kinh tế sẽ giảm mạnh. Thực tế tại Indonesia hay Philippines cho thấy, sau khi được nâng lên mức đầu tư, không chỉ trái phiếu mà cả thị trường cổ phiếu cũng thường bứt phá mạnh mẽ.
Thứ ba, việc xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế bài bản sẽ giúp hút thêm dòng vốn vào Việt Nam, mở rộng kênh huy động vốn cho doanh nghiệp, và gián tiếp giảm chi phí vốn. Theo ông, đây nên là một trong những ưu tiên cần được tập trung triển khai hơn nữa trong thời gian tới.
Cuối cùng, ông Michael Kokalari bày tỏ niềm tin mạnh mẽ về câu chuyện trí tuệ nhân tạo (AI) của Việt Nam, và cho rằng kỹ sư và chuyên gia nước ta đang sở hữu những lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực này, thể hiện qua số lượng chuyên gia AI người Việt đang nổi bật trên thế giới so với quy mô dân số.
Từ những tấm gương xuất thân bình thường nhưng giành học bổng danh giá, trở thành tác giả của các cuốn sách hàng đầu về AI, ông cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể và nên đặt mục tiêu xây dựng một ngành công nghiệp AI thực thụ.
Ông Michael Kokalar cho biết, điều khiến ông hào hứng nhất là bước tiến chính sách từ tháng 7 vừa qua, khi các trường đại học được tạo điều kiện thuận lợi hơn để thương mại hóa sáng tạo. Nếu trước đây chuyện một giáo sư đại học vừa nghiên cứu vừa làm doanh nhân như ở Stanford gần như là bất khả tại Việt Nam, thì nay các nhà khoa học có thể nhận tài trợ, chia sẻ lợi ích từ bằng sáng chế và các sản phẩm ứng dụng.
Điều này mở ra cơ hội lớn để các ý tưởng trong y tế, thiết bị y khoa cho thị trường mới nổi, hay ứng dụng AI trong chăm sóc sức khỏe… được đưa ra thị trường nhanh hơn.
Việt Anh







