|
  • :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Quy hoạch Điện VIII: Đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội đến năm 2045

Nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045, Quy hoạch Điện VIII đã xây dựng các phương án tương ứng các kịch bản tăng trưởng, đảm bảo nhu cầu điện dự báo theo từng giai đoạn.

Khắc phục mất cân đối nguồn điện

Theo Bộ Công Thương, qua 10 năm thực hiện Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh, hệ thống điện Việt Nam đã phát triển nhanh, tương đối đồng bộ giữa nguồn và lưới, nhiều mục tiêu quy hoạch đã đạt được. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt 9,6%/năm. Công suất tiêu thụ lớn nhất toàn quốc năm 2020 là 38.617 MW, trong đó miền Bắc 19.271 MW, miền Nam 17.362 MW, miền Trung là 3.365 MW.

Về phát triển nguồn điện, đến cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn quốc đạt 69.342 MW. Hiện, hệ thống điện Việt Nam có quy mô đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ 23 trên thế giới.

Tại Quy hoạch điện VII điều chỉnh và các quyết định bổ sung, công suất nguồn điện quy hoạch cho giai đoạn 2016-2030 là 109.090 MW, trong đó các năm 2016-2020 là 35.470 MW, 2021-2025 là 45.030 MW, 2026-2030 là 28.590 MW.

Tuy nhiên, tổng công suất đã đưa vào vận hành giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 28.377 MW (80% quy hoạch). Thực tế, các nguồn nhiệt điện (than, khí) chỉ thực hiện được 63%, thủy điện chỉ đạt 61%. Nhiều nhà máy khu vực miền Bắc chậm tiến độ nên đã dẫn tới tình trạng thiếu hụt nguồn điện trong một số thời điểm.

Quy hoạch Điện VIII: Đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội đến năm 2045
Quy hoạch điện VIII đã thực hiện dự báo phụ tải dựa trên các cơ sở dữ liệu về phát triển kinh tế - năng lượng của 30 năm quá khứ và các mục tiêu, kịch bản phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam

Ngoài ra, Quy hoạch Điện VIII cũng chỉ ra, việc phát triển nguồn điện trong những năm gần đây chưa phù hợp với phân bố và phát triển phụ tải, làm mất cân bằng cung - cầu từng miền và gây sức ép lên truyền tải từ miền Trung, miền Nam ra miền Bắc. Do nhiều dự án nhiệt điện than miền Bắc chậm triển khai (tỷ lệ thực hiện chỉ đạt 33,9% quy hoạch), số dự án điện mặt trời được phát triển chủ yếu tại miền Trung, miền Nam nên miền Bắc không tự cân đối được nguồn điện, miền Trung, miền Nam dư thừa nguồn.

Đặc biệt, nguồn điện gió, mặt trời phát triển quá nhanh trong thời gian ngắn (tập trung ở miền Trung, miền Nam), khiến việc xây dựng lưới điện giải tỏa công suất không kịp. Tỷ trọng cao (24,3% tổng công suất, 44% công suất tiêu thụ) của các nguồn điện gió, điện mặt trời đã gây ra nhiều khó khăn trong công tác vận hành, điều độ kinh tế hệ thống điện, ảnh hưởng đến vận hành các nguồn nhiệt điện than, khí.

Tự thực tế về việc mất cân đối giữa các nguồn điện, Quy hoạch Điện VIII đã hướng tới khắc phục tình trạng mất cân đối nguồn điện giữa các vùng miền, phát triển cân đối, hài hòa công suất nguồn trên từng vùng, hướng tới đảm bảo cân bằng nguồn - tải nội vùng; nâng cao độ tin cậy cung cấp điện nhằm giảm tổn thất truyền tải và khai thác hiệu quả các nguồn điện.

Như vậy, có thể thấy, Quy hoạch Điện VIII đã có nhiều nội dung thay đổi phù hợp với bối cảnh tình hình thực tế. Mặc dù vậy, đề án vẫn tuân thủ nghiêm túc các định hướng lớn nêu tại Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2045.

Đáp ứng nhu cầu điện dự báo

Theo đó, để đảm bảo cấp điện phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2045, Quy hoạch điện VIII đã thực hiện dự báo phụ tải dựa trên các cơ sở dữ liệu về phát triển kinh tế - năng lượng của 30 năm quá khứ (1990-2020); các mục tiêu và kịch bản phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 đề ra tại Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm.

Dự báo phụ tải Quy hoạch điện VIII thực hiện với 03 phương án tương ứng với 03 kịch bản tăng trưởng GDP từng giai đoạn tới năm 2045 đề ra tại Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Bên cạnh đó, kết quả dự báo phụ tải toàn quốc và các miền sau khi tiến hành rà soát không thay đổi so với kết quả đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại Tờ trình số 1682/TTr BCT ngày 26 tháng 3 năm 2021.

Cụ thể, dự báo công suất cực đại năm 2025 đạt khoảng 59.389-61.357 MW; năm 2030 khoảng 86.493-93.343 MW; năm 2035 khoảng 113.952-128.791 MW; năm 2040 khoảng 135.596-162.904 MW và năm 2045 khoảng 153.271-189.917 MW.

Tương ứng với công suất tiêu thụ đó, năm 2025, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 102.590-105.265 MW. Đến năm 2030 khoảng 130.371-143.839 MW. Và đến năm 2045 là khoảng 261.951-329.610 MW.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, các nguồn điện tại Quy hoạch Điện VIII sau khi điều chỉnh đã có sự cân đối hơn. Nhiệt điện than giảm tỷ trọng đáng kể trong hệ thống nguồn điện so với hiện nay, trong đó nhiệt điện khí sẽ tăng lên. Cụ thể, nhiệt điện than đến năm 2030 là 40.899 MW, chiếm tỷ lệ 28,4-31,4%. Còn nhiệt điện khí năm 2030 tăng rất mạnh, công suất lên đến 27.471-32.271 MW chiếm tỷ lệ 21,1-22,4%.

Đáng lưu ý, đến năm 2045 tỷ trọng nhiệt điện than giảm xuống, chỉ chiếm tỷ lệ 15,4-19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) tiếp tục tăng lên, chiếm tỷ lệ 23,5-26,9%.

Bên cạnh đó, để đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045, Quy hoạch Điện VIII khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện; tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 11,9-13,4% vào năm 2030 và khoảng 26,5-28,4% vào năm 2045.

Riêng về cơ cấu điện sản xuất, Quy hoạch Điện VIII cũng nêu rõ, năm 2025 tỷ trọng thủy điện là 23,2-24%, nhiệt điện than 40,5-42,4%, nhiệt điện khí 13,1-15,3%, nguồn điện năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (gió, mặt trời, sinh khối, ...) 16,4-17,1%, nhập khẩu 4,1-4,5%; và đến năm 2045 thủy điện 8,2-9,8%, nhiệt điện than 27,4-32,4%, nhiệt điện khí 28,4-33,1%, năng lượng tái tạo ngoài thủy điện 26,5-28,4%, nhập khẩu 3,05-3,1%.

Theo Bộ Công Thương nhận định, với chương trình phát triển nguồn điện như trên, điện năng sản xuất và nhập khẩu các giai đoạn trong Quy hoạch Điện VIII đều đáp ứng nhu cầu điện dự báo.

Ngoài ra, hệ thống lưới điện truyền tải tại Quy hoạch Điện VIII cũng được xây dựng đảm bảo đáp ứng yêu cầu hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn, ổn định, có khả năng tích hợp tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo cao. Khắc phục các tình trạng quá tải, nghẽn mạch, chất lượng điện áp thấp và một số vấn đề kỹ thuật vận hành lưới điện khác.

Cũng theo Bộ Công Thương, tổng công suất các nguồn điện sẽ tiếp tục được rà soát thêm trong quá trình xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch điện VIII để phù hợp với khả năng giải tỏa công suất của lưới điện và khả năng vận hành an toàn của hệ thống điện.

Hiện, Bộ Công Thương đã gửi Tờ trình Chính phủ về việc phê duyệt Đề án quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Để đề án sớm được thực thi, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Điện VIII với các nội dung chính được nêu tại Dự thảo Quyết định phê duyệt kèm theo để làm cơ sở tổ chức triển khai thực hiện.

Đỗ Nga


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Chưa có thông tin